Chọn sim phong thuỷ hợp mệnh

Mời nhập
Ngày sinh (Dương lịch)
/ /
Giờ sinh
Giới tính

Tin tức sim phong thủy - hợp mệnh của bạn

Linh Sơn Thánh Mẫu-Núi Bà Đen

NÚI BÀ ĐEN TÂY NINH

“LINH SƠN

THÁNH MẪU”

- SimSoDepPhongThuy.Net

Tỉnh Tây Ninh nằm sát với Sài Gòn theo hướng đông, từ huyện Củ Chi sẽ qua Trảng Bàng, Gò Dầu là đến thị xã, còn hướng đông bắc giáp tỉnh Bình Dương, Bình Phước, hướng nam giáp tỉnh Long An, tây nam giáp nước Campuchia.

Tỉnh Tây Ninh không có nhiều danh thắng như các tỉnh miền Trung, miền Bắc, nhưng nổi tiếng có núi Bà Đen, nơi thờ Linh Sơn Thánh Mẫu, và một Thánh thất trung tâm đạo Cao Đài.(xem boi so.dien thoai)

 

NÚI BÀ ĐEN

Với độ cao trên 1.000m, cách thị xã Tây Ninh khoảng 10 km, núi Bà Đen có chiều dài 6 km và rộng khoảng 4 km, nằm trong một dãy núi thế chân kiềng, bên hướng Tây có ngọn núi Heo cao 335m, bên hướng Nam có ngọn núi Phụng cao 600m cùng hồ Dầu Tiếng và những con sông quấn quít, tạo thành một quần thể sông núi ngoạn mục. Lưng chừng núi có điện thờ Bà Đen được vua Tự Đức năm thứ 3 sắc phong là Linh Sơn Thánh Mẫu, mọi người cho là rất linh thiêng, dân Nam bộ tôn kính gọi Bà bằng danh xưng Đức Phật Mẫu.

Nói về lịch sử núi Bà Đen, người ta không rõ từ bao giờ trên núi Một – theo cách gọi khi xưa của dân địa phương hay còn gọi núi Vân Sơn, núi Linh Sơn, núi Bà Đinh, còn sách Đại Nam Nhất Thống Chí ghi là núi Sơn Hà, núi Chiêng. Cuốn Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức cũng gọi là núi Bà Đinh. Người Khmer gọi bằng tên Phnom Chơn tức Bà Đen – ở đây có một pho tượng Phật Bà rất linh thiêng.

Vào cuối thế kỷ 19 đường lên núi còn vô cùng khó khăn, bởi núi Một có rừng rậm và nhiều mảnh thú. Người dân lúc đó vì sùng bái tín ngưỡng, thần linh đã cùng hợp lực dọn thành một con đường mòn dẫn đến nơi cúng Phật, mỗi lần đi phải họp thành đoàn. Từ đó ngôi chùa dần dần hình thành, được đặt tên là chùa Linh Sơn (núi thiêng). Sau này cạnh chùa có lập thêm một điện thờ, đó là điện thờ Bà Đen.(phong thuy sim)

Lai lịch về ngôi chùa trên núi các sách vở viết :

- Vào thế kỷ 18, thời Nam tiến của chúa Nguyễn, trên núi đã có nhiều vị sư trụ trì trong chùa Linh Sơn, được xem là các vị sư tổ. Trong số các nhà sư, có Tổ Đạo Trung Thiện Hiếu, tục gọi tổ Bưng Đĩa, từng trải qua hơn ba mươi năm khai sơn phá thạch trên núi, đến năm 1794 ông về Thủ Dầu Một lập chùa Long Hưng

- Thời kỳ Pháp thuộc thế kỷ 19, Tổ Thánh Thọ Phước Chí chủ trì chùa Phước Lâm (Vĩnh Xuân) lên núi xây dựng hang điện từ năm 1872 đến năm 1880.

- Vào đầu thế kỷ 20, các vị sư như Chơn Thoại có công xây dựng chùa Linh Sơn bằng gỗ từ năm 1880 đến năm 1910,

Chánh Khâm trùng tu chùa bằng đá từ 1922 đến năm 1937.

Nên sau này chùa Linh Sơn được gọi bằng tên “Linh Sơn Tiên Thạch Động” (Động đá trên ngọn núi thiêng).

Còn về thạch động hiện là điện thờ Bà Đen chưa ai rõ thời gian có từ năm nào, nhưng có những truyền thuyết về Bà sau đây chúng ta có thể lý giải được về khoảng thời gian có cốt tượng Bà được thỉnh vào điện.(xem sim phong thuy)

- TRUYỀN THUYẾT BÀ ĐEN

Truyền thuyết thứ nhất :

Tương truyền tại Trảng Bàng cách núi Một chừng 40 km, có đôi trai gái, nàng tên Lý Thị Thiên Hương giỏi văn thơ chữ nghĩa và có cả võ nghệ, diện mạo duyên dáng nhưng nước da đen sạm; còn chàng tên Lê Sĩ Triệt cũng là người văn hay võ giỏi. Cả hai đem lòng thương mến nhau, khi ấy có con trai viên quan huyện quyết bắt Thiên Hương về làm thiếp, bị Sĩ Triệt giải nạn cứu người yêu.

Cha mẹ Thiên Hương hay tin hứa gả nàng cho Sĩ Triệt, nhưng bấy giờ Sĩ Triệt phải lên đường tòng quân, được Thiên Hương tiễn đưa và hứa hẹn đợi chàng ngày trở về.

Sau khi Sĩ Triệt lên đường chống giặc, Thiên Hương ở lại quê nhà. Một hôm Thiên Hương lên chùa trên núi Một cầu nguyện, lúc xuống núi thình lình nàng bị đám thủ hạ con quan huyện ùa tới vây bắt. Biết cùng đường và để giữ trọn trinh tiết cho Lê Sĩ Triệt, nàng đã lao xuống vực sâu tự vận.

Ba hôm sau, Hòa thượng trụ trì chùa trên núi Một đang ngồi niệm Phật, bỗng gặp một người con gái da ngâm đen đến báo mộng :

- Ta là Lý Thị Thiên Hương, vừa tròn 18 tuổi chẳng may bị bọn quan lính ức hiếp nên phải tuẫn tiết. Xác ta đã ba ngày nhưng còn nguyên vẹn, Hòa thượng đi xuống chân núi phía Đông sẽ thấy mà đem chôn giùm. Do kiếp trước ta đạt căn tu nên kiếp này đã đắc quả thần thông. Hòa thượng hãy nghe lời ta sẽ gặp nhiều điều lành.(boi so dien thoai)

Vị hòa thượng theo lời báo mộng của Thiên Hương, ông đi tìm được xác và đem chôn cất tử tế. Các Phật tử khi viếng chùa nghe vị hòa thượng kể lại câu chuyện, họ tới mộ Thiên Hương cầu xin mọi chuyện đều được như ý.

Chuyện từ đó đồn xa, đến tai Thượng quốc công Lê Văn Duyệt đang cai quản trấn Gia Định, ông liền lên núi Một đến ngay phần mộ Thiên Hương mà truyền :

- Trinh nữ có hiển linh hãy chứng tỏ cho ta thấy.

Vừa nói dứt lời, Thượng quốc công nghe thấy sau lưng có người con gái lên tiếng chào. Lê Văn Duyệt và đám tùy tùng đều ngạc nhiên sửng sốt. Mới biết hồn Thiên Hương đã nhập vào một cô gái đang viếng chùa, chứng tỏ sự hiển linh của mình.

Thượng quốc công Lê Văn Duyệt bèn hỏi :

- Nay ta hỏi, cớ  sao trinh nữ phải thác ?

Thiên Hương thuật lại câu chuyện gá nghĩa giữa nàng với Sĩ Triệt, rồi bị con quan huyện ép buộc bắt làm thiếp, đến đường cùng phải tuẫn tiết để giữ tròn trinh tiết.

- … Ngọc Hoàng chứng được sự đoan chính mấy kiếp của tôi, xét về kiếp trước cũng đã tu đắc quả, nên ngài cho xuống trần gian cứu dân độ thế. Xác này chỉ là đời thứ hai, trước đây khi chúa Nguyễn Ánh bôn tẩu vào Nam lạc bước đến nơi này, tôi đã báo phải dựa vào quân Xiêm mới làm nên nghiệp lớn.

Nói dứt lời hồn Thiên Hương thoát xác, cô gái mới hồi tỉnh lại. Thượng quốc công Lê Văn Duyệt bấy giờ mới tin lời đồn của thiên hạ, ông dâng sớ tâu trình lên vua Gia Long và xin phong sắc cho Lý Thị Thiên Hương. Vua Gia Long nhớ lại chuyện xưa thấy đúng, nên phong Thiên Hương là “Linh Sơn Thánh Mẫu” cai quản núi Một và chủ sự tại chùa Linh Sơn.(xem so dien thoai)

Truyền thuyết thứ hai :

Đất Tây Ninh ngày trước cũng như bây giờ, phần đất từ Trảng Bàng – Suối Sâu đến tận miệt tây và tây nam biên giới Campuchia, có nhiều người Miên sinh sống chung.

Có một gia đình người Cao Miên (có sách ghi rằng làm quan huyện lệnh tại địa phương) sinh được hai con, gồm một trai một gái. Cô con gái tên Đênh. Lúc nàng Đênh đến tuổi dậy thì có vị sư ở Bến Cát đến núi Một tìm nơi lập chùa để phụng sự Phật pháp. Khi đến Tây Ninh, ông đến nhà gia đình nàng Đênh xin tá túc một thời gian để tìm đất cất chùa.

Cha nàng Đênh liền lập cho vị sư già một ngôi chùa mang tên Ông Tàu (do nhà sư là người Hoa) nằm ở chân núi phía đông gần làng Phước Hội. Một thời gian sau vị sư về lại Bến Cát, để chùa Ông Tàu cho nàng Đênh trông nom.

Như truyện tích nàng Thiên Hương, nàng Đênh cũng được viên quan ở Trảng Bàng ngấp nghé hỏi cưới, duy có điều là nàng Đênh đã phát nguyện xuất gia thờ Phật không lấy chồng, nên nàng không chiều lòng cha mẹ được, nàng Đênh liền bỏ nhà ra đi tìm nơi tu đạo.

Khi bà Đênh từ giã cõi trần, hồn bà hiển thánh và về báo cho cha mẹ biết bà tu đã đắc đạo, được thượng giới phái xuống trần cứu nhân độ thế. Bà hiển linh báo cho chúa Nguyễn Ánh khi bôn tẩu trên núi Một ẩn trốn quân Tây Sơn, những việc phải làm để giành lại ngôi vua.

Sau này lên ngai vàng, chúa Nguyễn – Gia Long nghĩ đến bà Đênh liền sai đúc cốt Bà Đênh bằng đồng đen đem lên núi Một để thờ, phong Bà Đênh là Linh Sơn Thánh Mẫu. Nơi điện thờ Bà gọi là Linh Sơn Tiên Thạch Động.

Tuy bà Đênh người không đen như Thiên Hương, nhưng là người Cao Miên có làn da bánh mật và tên gọi Bà Đênh, sau dân địa phương gọi trại là Bà Đen, gọi núi Một, núi Tây Ninh là núi Bà Đen hay núi Điện Bà.

Với hai truyền thuyết trên, chúng ta dựa vào thời gian Nguyễn Ánh lên ngôi vua lấy hiệu Gia Long năm 1802 (và mất năm 1819), suy đoán tượng Bà Đen có vào thời gian trong những năm 1805 -1810.(phong thuy so dien thoai)

Truyền thuyết thứ ba :

Một truyện tích khác trong cuốn “Nếp Cũ” của Toan Ánh gần như chuyện vừa thuật trên, nhưng có đoạn :

- … Một đêm khi cha mẹ ngủ yên, Bà lẻn ra đi tầm Đạo. Hôm sau tưởng con mình như thường lệ đi chùa lễ Phật, nên không để ý đến sự vắng mặt của Bà. Mãi đến buổi ăn, song thân Bà Đênh mới cho người đi tìm, nhưng không thấy. Cha Bà là một viên quan trấn thủ địa phương, liền sai quân lính tỏa ra đi tìm, mới tìm ra một khúc chân người tại một hang đá trên núi Một.

Song thân Bà Đênh đến nơi nhận ra chân người nơi hang đá là chân của Bà. Mọi người ai cũng đoán Bà tìm lên núi Một bị cọp ăn thịt mất rồi.

Song thân Bà Đênh ra lịnh quân lính mang khúc chân đó lên chùa mai táng và rước thầy cúng giải oan. Dân địa phương cho rằng Bà Đênh chết oan như thế rất hiển linh, nên từ đó có việc gì khó khăn đều lên núi cầu xin Bà phù hộ và thường được như ý.

Nhiều năm sau, lúc chúa Nguyễn Ánh trốn quân Tây Sơn chạy về Trảng Mang Cá vùng Bùng Binh, được dân địa phương báo tin nên tìm trên núi Một có Bà Đênh hiển thánh, ai cầu gì được nấy. Nguyễn Ánh liền sai Lê Văn Duyệt lên núi cầu Bà phù hộ cho chúa và đoàn tùy tùng tai qua nạn khỏi, cùng hỏi chuyện tương lai.

Bà bèn báo mộng cho chúa Nguyễn Ánh hãy tìm đường qua Xiêm cầu viện, sự nghiệp sẽ thành. Chúa Nguyễn Ánh nghe theo và sau này đánh thắng được quân Tây Sơn .

Sau khi lên ngôi xưng vua, Nguyễn Ánh Gia Long bèn cho đúc tượng Bà Đênh bằng đồng đen và giao quan trấn thủ miền Nam đưa lên núi Một tại động thờ Bà, kèm theo sắc phong là Linh Sơn Thánh Mẫu. Do đó nơi thờ Bà được các nhà sư và bá tánh gọi là Linh Sơn Tiên thạch động.(xem phong thuy so dien thoai)

Và những truyền thuyết khác :

Trên núi Một ai cũng đồn có Phật Bà hiển thánh, nhưng việc lập điện thờ Bà làm nơi hương khói không ai  làm.

Sau này có tu sĩ Đạo Trung (vào thế kỷ 18) ở trên núi suốt 31 năm khai sơn phá thạch, sớm chiều tụng kinh niệm Phật. Bỗng thấy Phật Bà hiện trên đỉnh núi, và ít lâu sau ông tìm được một cốt tượng bằng đá chân dung hình Phật Bà ở nơi một dòng suối. Ông liền thỉnh về lập động để thờ phụng. Điện Bà có từ đó.

Với những truyền thuyết trên, xét về mặt nghệ thuật điêu khắc, tượng bà mang nhiều ảnh hưởng từ nền văn hóa Phù Nam (Campuchia) pha trộn nền văn hóa Việt như tượng Bà Chúa Xứ .(xem sim hop tuoi)

Nên xuất xứ pho tượng Bà có thể được tạc vào thế kỷ 18, thời Tổ Đạo Trung nhưng lúc đó bằng đá, khi chúa Nguyễn Ánh lên làm vua nước Việt vào đầu thế kỷ 19, mới đúc tượng Bà bằng đồng đen như bây giờ, khớp với lịch sử xây dựng chùa và điện trên núi vào thời gian 1871 – 1880, thời của Tổ Thánh Thọ Phước Chí lên Điện Bà xây hang điện đưa cốt tượng Bà vào thờ, trước đó cốt tượng để bên chùa Linh Sơn (nay là chùa Ông hay Linh Sơn Tiên Thạch  

TOÀN CẢNH NÚI BÀ ĐEN

- CHÙA TRUNG : Khi mọi người lên núi Bà Đen, sẽ gặp một ngôi chùa nằm dưới chân núi, dân địa phương cho rằng là nơi Bà dừng chân tu đạo khi đến núi, sau đó trên núi đã cất chùa Bà mới lên tu hành.

Chùa Trung ngày trước rất khang trang nhưng do chiến tranh nên hư hỏng nặng, nay chùa được dựng lên đơn sơ hơn trước, nhưng cách bài trí trong chùa vẫn theo nét cũ.

Phía ngoài chùa là tượng Tiêu Diện Đại Sĩ, bên trong đứng xoay lưng với tượng ngoài là tượng Hộ pháp, sau đó có bốn pho Tứ vị sơn thần theo 4 hướng đông tây nam bắc.

Đi vào chánh điện, dàn hàng ngang phía trái là tượng Phật Bà Quan Âm cùng Cửu Thiên Huyền Nữ, Phật Thích Ca Mâu Ni, Địa Tạng, Phật Di Đà, Phật Di Lặc. Phía phải là bàn thờ  Quan Công.

Gian sau đấu lưng với bàn thờ Phật là cung thờ Linh Sơn Thánh Mẫu tượng tạc thời Bà còn trẻ, da mặt hồng hào, đội mũ triều thiên, choàng khăn áo màu đỏ. Hai bên tượng có cô Hồng, cô Cúc đứng hầu. Đối diện cung thờ Bà là bàn thờ Bà Thiên Hậu. Bên gian thờ tổ có pho Đức Diêu Trì Kim Mẫu và bàn thờ Đạt Ma Sư Tổ.

Chùa Trung thờ tự như những ngôi chùa miền Bắc thường thờ, tức Tiền Phật hậu Mẫu.(sim hop tuoi)

- CHÙA ÔNG (Linh Sơn Tiên Thạch Tự) : Hiện chùa Ông lấy tên Linh Sơn Tiên Thạch Tự (không còn mang tên Thạch Động như xưa), khi khách hành hương từ dưới núi lên là gặp (nay ngoài đường bộ, còn có cáp treo và máng trượt).

Chùa nằm hướng Đông Nam có kiến trúc bền vững, khang trang. Trước sân có tượng Phật Bà Quan Âm, phía sau tượng là pho Tiêu Diện Đại Sĩ, đấu lưng có tượng Hộ pháp mặt nhìn vào trong. Vào trong chùa, phía bên phải là 3 tượng Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu (theo sách cũ ghi dãy này trước đây là những tượng mang hình tượng Thập điện Diêm Vương). Tường bên trái cũng là dãy tượng Thập Bát La Hán, nhưng nay chỉ còn 4 pho.

Nơi chánh điện, nhìn hàng ngang có 3 ban thờ. Ban giữa pho tượng lớn thờ Phật A Di Đà, bên trái ban thờ Quan Âm Bồ Tát, Phật Chuẩn Đề 18 tay, Địa Tạng, bên phải Phật Chuẩn Đề , Đại Thế Chí, Địa Tạng cưỡi sư tử.

Phía sau gian thờ tổ thờ Đạt Ma Tổ Sư, Quan Công và bàn thờ hương linh của bá tánh đến gửi vong. Ngoài ra còn ban thờ Phật Dám với tư cách coi sóc đồ lễ.

Chùa Ông khác chùa Trung là không thờ Tiền Phật hậu Mẫu, tức không thờ Linh Sơn Thánh Mẫu, Bà Thiên Hậu v.v…xem số điện thoại

- ĐIỆN BÀ : nằm  cạnh chùa Ông (ngôi chùa có từ trước đời chúa Nguyễn Ánh cuối thế kỷ 18, tức Linh Sơn Tự nơi Bà Đen hiển linh), điện Bà cũng nằm về hướng Đông Nam có kết cấu 2 phần, phần trong là một vòm hang đá được tạo bởi một phiến đá rất lớn nhô ra khỏi sườn núi, vòm chỉ cao gần 2 mét có diện tích khoảng 20m2. Phần ngoài là phần xây nối tiếp với hang động, để trống 3 mặt chỉ có trần nhà, diện tích cũng bằng gian thờ Bà.

Cửa hang được bố trí 2 cửa hai bên, có một gian nhỏ thờ ngựa gỏ, một gian thờ ông Địa. Nhưng khách hành hương nhìn thấy bên hông còn có 2 miếu nhỏ thờ Ông Tà, trong thờ 1 hòn đá hình trụ cao gần 5 tấc đường kính khoảng 1 tấc, như một Linga thờ ở miếu Bà Chúa Xứ, trên phiến đá trùm một tấm vải đỏ.

Bên trong điện, hai bên thờ Tứ Vị Sơn Thần nay chỉ có bát nhang. Phía trong cùng là chánh điện, ở giữa là cốt tượng Linh Sơn Thánh Mẫu, mặt và toàn thân màu đen, mình choàng áo thêu kim tuyến. Hai bên thờ cô cậu : Cậu Tài cậu Quý – Cô Hồng cô Hạnh.

Phía trước có 2 tượng, một trắng do khách hành hương cung tiến được cho là tượng Bà Chúa Xứ, một đen được các vị giữ điện nói đưa từ động Thanh Long về, là tượng Thánh Mẫu. Phía ngoài là tượng Địa Mẫu tạc đứng khá lớn. Cùng 4 pho Tứ Thiên Vương tên Ma Lễ Hồng, Ma Lễ Hải, Ma Lễ Thọ và Ma Lễ Thanh. Cửa điện có tượng Phật Bà Quan Âm đứng.

Ở điện thờ Bà Đen ta nhận thấy cách bày trí rất kỳ ảo và không kém trang nghiêm. Đây cũng là cách thờ tiền Phật hậu Mẫu như những đền điện thờ Mẫu khác.(sim phong thủy)

- CHÙA HANG (Động Ông Chàm) : từ điện Bà khách hành hương phải leo 155 bậc thang qua suối Bạc sẽ tới Chùa Hang, xưa gọi là động Ông Chàm, vì lúc mới khai phá núi, có một người Chàm lên đây lập động tu luyện bùa chú, khi ông chết mới có người phát hiện, và gọi tên là Long Châu Tự.

Chùa Hang nằm gọn trong một hang đá có diện tích, độ cao và tạo hình như điện Bà Đen đang ngự. Trước cửa hang cũng gồm hai lối ra vào, trấn cửa là Tiêu Diện Đại Sĩ phía trong tượng Hộ pháp quay mặt vào chánh điện. Ở giữa điện có tượng Phật Di Đà, bốn góc có các tượng Phật Quan Âm, Thích Ca sơ sinh, Thế Chí Bồ Tát và Chuẩn Đề 18 tay.

Phía trong cùng, dãy ban thờ hàng ngang từ ngoài nhìn vào, góc trái thờ Địa Tạng cưỡi sư tử, kế bên có tượng Linh Sơn Thánh Mẫu màu đen, hai bên tượng Bà có 2 tượng nhỏ cô cậu đứng hầu. Kế đó là tượng Bà Chúa Xứ. Bên góc phải là ban thờ tượng Ngọc Hoàng. Phía ngoài hang là một sân có 2 pho tượng Phật Bà Quan Âm cao khoảng 2m.

Ngoài ra kế bên chùa Hang là một ngôi chùa có hai tầng, kiến trúc như những ngôi chùa miền Bắc với 4 góc cong vút, được dựng trên nền Long Châu Tự cũ.(xem tu vi so dien thoai)

LỄ HỘI VÍA BÀ

Hằng năm, tỉnh Tây Ninh đều tổ chức Lễ hội Vía Bà Tây Ninh từ ngày mùng 10 tết đến rằm tháng giêng ÂL.

Việc tổ chức ngoài việc thu hút khách thập phương đến Tây Ninh và tham quan cảnh trí núi Điện Bà, còn là những ngày lễ hội thuần túy về tín ngưỡng, là dịp người dân địa phương đến cầu quốc thái dân an, mùa màng tươi tốt và xin phù hộ cho gia đình những điều tốt lành trong năm mới đến.

Khác với lễ vía Bà Chúa Xứ, lễ vía Bà Đen rất đơn giản. Dù được tổ chức trong nhiều ngày, nhưng chỉ tập trung vào giữa đêm 14 sang 15 tháng giêng, là lễ mộc dục tắm tượng.

Trước khi diễn ra lễ trên, trong hang động thờ Bà Đen cấm cung người không phận sự không được vào, chỉ có các ni cô tiến hành lễ tắm tượng, thay khăn áo cho Bà là hiện diện.

Nước tắm là nước dừa có bông thơm, trong cung mùi trầm hương tỏa ngát. Trước khi lau cốt tượng, các ni cô giăng mùng che kín mới bắt đầu lau chùi bụi bặm trên cốt tượng rồi thay khăn áo cho Bà, khăn áo mũ mão và nước hoa tắm tượng đều do thiện nam tín nữ dâng lên để được Bà ban lộc. Khi lễ mộc dục xong, thau nước được mọi người xin để uống hoặc để xoa bóp chữa bịnh.

Lễ tắm Bà dứt là lúc mọi người bắt đầu vào viếng Điện Bà cầu an, tiếng cầu xin vang dội, hòa cùng tiếng xin xăm xin keo không dứt. Ngoài sân trước chùa Linh Sơn có sân khấu hát tuồng biểu diễn ca múa nhạc dân gian.

Linh Sơn Thánh Mẫu luôn là một nữ Thánh oai linh, vì thế khách thập phương khắp nơi đều tôn kính, mọi người hành hương đến ngày một thêm đông.(so dien thoai phong thuy)

TÒA THÁNH TÂY NINH

Tỉnh Tây Ninh ngoài núi Bà Đen có điện thờ “Linh Sơn Thánh Mẫu”, còn có Tòa Thánh của đạo Cao Đài, cách thị xã khoảng 5 km.

Đạo Cao Đài ra đời trên đất Tây Ninh do giáo sĩ Phạm Công Tắc đề xướng năm 1926, biểu tượng Thiên Nhãn, thờ “đấng tối cao”.

Tòa Thánh Cao Đài được thành lập và tổ chức gần giống như Tòa Thánh Vatican của đạo Ki-tô nằm trong lòng thành phố Roma nước Ý; tức Tòa thánh Tây Ninh được xây dựng biệt lập trên một diện tích rộng lớn, nằm trong bốn bức tường rào bằng gạch, có bốn cửa đông tây nam bắc.

Bên trong Tòa thánh có tên đường, lối đi riêng biệt, cùng những nhà làm việc của từng bộ phận như nhà nghi lễ, ngoại vụ, nội vụ, tuyên giáo v.v… cùng một Thánh Thất được xây dựng đồ sộ vào năm 1933 nhưng đến năm 1955 mới thật sự hoàn tất. Trước năm 1975 ai muốn vào trong đất Thánh phải được cho phép, nay nhà nước đã mở trục đường giao thông cho xe cộ đi ngang qua trước Thánh thất.

Người dân Tây Ninh hãnh diện với Tòa Thánh, bởi ngoài việc biểu tượng cho một tôn giáo mới ở Việt Nam.

Tòa Thánh Tây Ninh còn mang hình dáng của lối kiến trúc thuộc kỷ nguyên phục hưng ở châu Âu (thế kỷ 14), cùng sự pha trộn với lối kiến trúc đền đài của phương Đông, để hình thành ra một cấu trúc riêng biệt, với cung Thánh có mái vòm cao và những thân cột to cùng với họa tiết là những hình rồng phụng đang lượn ôm quanh được tô điểm bằng những màu sắc sặc sỡ.(xem so dien thoai theo phong thuy)

SimSoDepPhongThuy.Net